Trả lời
 
Công cụ bài viết Kiểu hiển thị
  #1  
Cũ 06-05-2017, 04:29 PM
lephuc01 lephuc01 đang online
Member
 
Tham gia ngày: May 2017
Bài gửi: 39
Mặc định HỘP NHÔM , ỐNG TRÒN NHÔM

Hệ thống quảng cáo SangNhuong.com

chuyên sản xuất nhôm thanh U,V, nhôm hộp,vuông, gia công theo mẫu yêu cầu, sơn tĩnh điện...[/b]

0937655551 phúc

0983994326 linh

Doanh nghiệp QTH mình chuyên cung cấp các loại nhôm thanh định hình theo công nghệ nhật bản. Qua nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực này, công ty của chúng tôi không ngừng phát triển về mọi mặt để ra đời những thanh nhôm đạt chất lượng tốt nhất.Với hơn khoảng 200 kiểu dáng sản phẩm khác nhau theo từng nghành nghề đáp ứng hầu hết nhu cầu của khách hàng trong mọi lĩnh vực như : xây dựng, trang trí ngoại thất và những thanh nhôm phục vụ công nghiệp trong và ngoài nước. Song song nhằm đáp ứng nhu cầu quý khách hàng doanh nghiệp còn nhận gia công nhôm theo khuân mẫu, gia công sơn tĩnh điện...Quý khách có thể tham khảo thêm từ trang Wed





nhôm hộp vuông, chữ nhật






5234



DNTN TM Nhôm - Sắt Đại Phúc Linh

email: lephuc.business@gmail.com

TEL: 0937655551 Mr PHÚC - 0983994326 Mrs LINH

Nhà máy: ấp 5 x.vĩnh lộc b - h.bình chánh

VĂN PHÒNG : THIÊN PHƯỚC P9 TÂN BÌNH, TP.HCM

================================================== ================================================== ====

Nhôm ( tiếng Latinh : alumen , alum ) là tên một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu Al và sống lưng tử bằng 13. Gõ chiêng la tử khối bằng 27 đvC. Khối lượng riêng là 2 , 7 g/cm 3 . Nhiệt độ nóng chảy là 660 o C. Nhôm là nguyên tố phổ biến thứ 3 ( sau ôxy và silic ) , và là kim loại phổ biến nhất trong vỏ địa cầu. Nhôm chiếm khoảng 8% khối lớp rắn của địa cầu. Kim khí nhôm hiếm biến hóa hóa học mạnh với các mẫu quặng và có mặt ngăn lại trong một giới hạn nhất định trong các môi trường khử cực mạnh. Tuy thế , nó vẫn được tìm thấy ở dạng hợp chất trong hơn 270 loại khoáng vật khác nhau. [4] Quặng chính chứa nhôm là bô xít .



Nhôm có điểm đáng để ý của một kim loại có tỷ trọng thấp và có thể chống bào mòn hiện tượng bị động. Các thành phần nông dân cấu trúc được làm từ nhôm và hợp kim của nó là rất quan yếu cho ngành công nghiệp quáng dã vũ trụ và rất quan trọng trong các khu vực khác của liên lạc vận tải và nguyên liệu cấu trúc. Các hợp chất hữu ích nhất của nhôm là các ôxít và sunfat.



mặc dầu nó có mặt phổ quát trong môi trường nhưng các muối nhôm không được bất kỳ dạng sống nào sử dụng. Với sự phổ thông của nó , nhôm được dung nạp tốt bởi cây cỏ và động vật. [5]



Từ "nhôm" trong tiếng Việt có nguồn gốc từ aluminium trong tiếng Pháp .





trang mục [ ẩn ]

1 thuộc tính

2 Lịch sử

3 ứng dụng

4 Sự phổ thông , điều chế

5 Đồng vị

5.1 Cụm

6 cảnh báo

7 Hóa học

7.1 thể trạng ôxi hóa 1

7.2 trạng thái ôxi hóa 2

7.3 thể trạng ôxi hóa 3

8 có tác động đến một điều gì đó lên thực vật

9 ghi chú

10 biên soạn

11 kết liên ngoài





tính chất [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một kim khí mềm , nhẹ với màu xám bạc ánh kim mờ , vì có một lớp mỏng ôxi hóa gây nên rất nhanh khi nó để trần ngoài không khí . Tỷ trọng riêng của nhôm chỉ khoảng một phần ba sắt hay đồng ; nó rất mềm ( chỉ sau vàng ) , dễ uốn ( đứng thứ sáu ) và dễ dàng gia công trên máy móc hay đúc; nó có khả năng chống ăn mòn và bền vững do lớp ôxít bảo vệ. Nó cũng không nhiễm từ và không cháy khi để ở ngoài khí trời ở điều kiện thông thường .



Sức bền của nhôm thuần khiết là 7–11 MPa , trong lúc hợp kim nhôm có độ bền từ 200 MPa đến 600 MPa. [6] Các nguyên tử nhôm sắp đặt thành một kiến trúc lập phương tâm mặt ( fcc ). Nhôm có năng lượng xếp lỗi vào khoảng 200 mJ/m 2 . [7]



Nhôm phản ứng với nước tạo ra hydro và năng lượng:



2 Al + 6 H 2 O → 2 Al( OH ) 3 + 3 H 2

tính chất này có khả năng dùng để làm ra hydro , tuy nhiên biến hóa này mau chóng dừng lại vì tạo lớp kết tủa keo lắng xuống , ngăn cản biến hóa xảy ra. [8]



Khi ngâm trong dung dịch kiềm đặc , lớp màng này sẽ bị gây thiệt hại nhiều theo đặc tính



Al( OH ) 3 +NaOH → NaAlO 2 + 2H 2 O

nối tiếp Al lại tác dụng với nước như phản ứng trên. Quá trình này lại diễn ra đến khi Al không bị hòa tan hết.



Lịch sử [ sửa sửa mã nguồn ] Tham chiếu đi hàng đầu tới nhôm ( mặc dù chẳng thể chứng minh ) là trong Naturalis Historia của Gaius Plinius Secundus ( tức Pliny anh ):



Có một càng ngày càng người thợ vàng ở Roma được phép cho hoàng đế Tiberius xem một chiếc đĩa ăn làm từ một kim khí mới. Chiếc đĩa rất nhẹ và có màu sáng như bạc . Người thợ vàng nói với hoàng đế rằng ông đã sản xuất kim khí từ đất sét thô. Ông cũng cam kết với hoàng đế rằng chỉ có ông ta và chúa Trời biết cách sản xuất kim khí này từ đất sét. Hoàng đế rất thích , và như một chuyên gia về tài chính ông đã quan hoài tới nó. Tuy nhiên ông nhận ngay ra là mọi Chia của cải vàng , bạc của ông sẽ mất giá trị giả dụ người dân bắt đầu sản xuất kim khí màu sáng này từ đất sét. Bởi thế , thay vì cám ơn người thợ vàng , ông đã ra lệnh chặt đầu ông ta . [9] [10]



Những người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã sử dụng các loại muối của kim khí này như là thuốc cẩn màu ( nhuộm ) và như chất làm se vết thương , và Phèn trắng vẫn được sử dụng như chất làm se. Năm 1761 Guyton de Morveau đề xuất cách gọi gốc của phèn chua là alumine . Năm 1808 , Humphry Davy chính xác được gốc kim loại của phèn chua ( alum ) , mà theo đó ông Mệnh danh cho nhôm là aluminium .



tên tuổi của Friedrich Wöhler nhìn chung được gắn liền với việc phân lập nhôm vào năm 1827 . Tuy nhiên , kim loại này đã được làm ra lần đi hàng đầu trong dạng không nguyên chất hai năm trước bởi nhà vật lý và hóa học Đan Mạch Hans Christian Ørsted .



Nhôm được chọn làm chóp cho kỷ niệm Washington vào thời kì khi một aoxơ ( 28 , 35 g ) quý báu bằng hai lần ngày lương của người lao động. [11]



Charles Martin Hall nhận được bằng sáng chế ( số 400655 ) năm 1886 , về quy trình điện phân để làm ra nhôm. Henri Saint-Claire Deville ( Pháp ) đã hoàn thiện thủ pháp của Wöhler ( năm 1846 ) và biểu lộ nó trong cuốn sách năm 1859 với hai sửa đổi cho tiến bộ hơn trong quy trình là thay thế kali thành natri và hai thay vì một ( chlorure )??. Phát minh của quy trình Hall-Héroult năm 1886 đã làm cho việc làm ra nhôm từ khoáng vật trở thành không đắt tiền và hiện tại nó được sử dụng rộng rãi trên thế giới.



Nước Đức trở thành nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền. Tuy nhiên , năm 1942 , những nhà máy thủy điện mới như Grand Coulee Dam đã cho phép Mỹ những thứ mà nước Đức quốc xã không thể lạc quan cạnh tranh: khả năng làm ra đủ nhôm để có khả năng làm ra 60.000 máy bay chiến đấu trong bốn năm. [12] .



áp dụng [ sửa sửa mã nguồn ] Tính theo cả số lượng lẫn giá trị , việc sử dụng nhôm vượt tất cả các kim loại khác , trừ sắt [13] , và nó đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Nhôm thuần chất có sức chịu kéo thấp , nhưng tạo ra các hợp kim với nhiều nguyên tố như đồng , kẽm , magiê , mangan và silic [14] . Khi được gia công cơ-nhiệt , các hợp kim nhôm này có các thuộc tính cơ học tăng lên đáng kể.



Các hợp kim nhôm làm nên một thành phần nông dân quan yếu trong các phi cơ và hoả tiễn do tỷ lệ sức bền cao trên cùng khối lượng.

Khi nhôm được bay hơi trong chân không , nó tạo ra lớp bao phủ cộng chấn cả ánh sáng và bức xạ nhiệt . Các lớp bao trùm này làm nên một lớp mỏng của ôxít nhôm canh gác , nó không bị hư hỏng như các lớp bạc bao phủ vẫn hay bị. Trên thực tiễn , Hầu như toàn bộ các loại gương đương đại được sản xuất sử dụng lớp như: âm ba bằng nhôm trên mặt sau của sao thủy . Các gương của kính thiên văn cũng được phủ một lớp mỏng nhôm , nhưng là ở mặt trước để tránh các v bên trong mặc dầu điều này làm cho bề mặt rất thính hơn với các tổn thương.

Các loại vỏ phủ nhôm thỉnh thoảng được dùng thay vỏ phủ vàng để phủ vệ tinh nhân tạo hay khí cầu để tăng nhiệt độ cho chúng , nhờ vào phản ứng hấp thụ bức xạ điện từ của kim ô tốt , mà bức xạ hồng ngoại vào ban đêm thấp.

Hợp kim nhôm , nhẹ và bền , được dùng để chế tạo các chi tiết của phương tiện vận chuyển ( ôtô , máy bay , xe tải , toa xe tàu hỏa , tàu biển , v.v. )

Đóng gói ( can , giấy gói , v.v )

xử lý nước

Xây dựng ( cửa sổ , cửa , ván , v.v; tuy nhiên nó đã đánh mất vai trò chính dùng làm dây dẫn phần sau cuối của các mạng điện , trực tiếp đến người sử dụng. [15] )

Các hàng tiêu dùng có độ bền cao ( trang thiết bị , đồ nấu bếp , v.v )

Các đường dây tải điện ( mặc dầu độ dẫn điện của nó chỉ bằng 60% của đồng , nó nhẹ hơn nếu tính theo khối lượng và rẻ tiền hơn [16]

chế tạo máy móc.

mặc dù tự bản thân nó là không nhiễm từ , nhôm được sử dụng trong thép MKM và các từ thạch Alnico .

Nhôm siêu thuần khiết ( SPA ) chứa 99 , 980%-99 , 999% nhôm được sử dụng trong Công lao điện tử và sản xuất đĩa CD .

Nhôm dạng bột thông thường được sử dụng để tạo màu bạc trong sơn. Các bông nhôm có thể cho thêm vào trong sơn lót , chính yếu là trong xử lí gỗ — khi khô đi , các bông nhôm sẽ tạo ra một lớp kháng nước rất tốt.

Nhôm dương cực hóa là ổn định hơn đối với sự ôxi hóa , và nó được sử dụng trong các lĩnh vực khác nhau của xây dựng.

phần lớn các bộ tản nhiệt cho CPU của các máy tính hiện đại được sản xuất từ nhôm vì nó dễ dàng trong làm ra và độ dẫn nhiệt cao.

Ôxít nhôm , alumina , được tìm thấy trong tự nhiên dưới dạng corunđum , emery , ruby và saphia và được sử dụng trong làm ra thủy tinh. Ruby và saphia tổng hợp được sử dụng trong các ống tia laser để sản xuất ánh sáng có thể giao thoa .

Sự ôxi hóa nhôm tỏa ra nhiều nhiệt , nó sử dụng để làm vật liệu rắn cho tên lửa , nhiệt nhôm và các thành phần nông dân của pháo bông .

biến hóa nhiệt nhôm dùng để pha chế các kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao ( như crôm Cr Vonfarm W... )

Sự phổ quát , pha chế [ sửa sửa mã nguồn ]

Quặng Bauxite chứa nhôm. Đồng vị bền của nhôm được tạo ra khi hydro hợp hạch với magiê hoặc trong các sao lớn hoặc trong các vụ nổ siêu tân tinh . [17]



mặc dù nhôm là nguyên tố phổ biến trong vỏ trái đất ( 8 , 3% theo khối lượng ) [18] , nó lại hiếm trong dạng không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc và đã từng được cho là kim loại quý đáng được coi trọng hơn vàng ( Người ta nói rằng Napoleon III của Pháp có các bộ đồ ăn bằng nhôm dự phòng cho những người khách quý nhất của ông. Những người khách khác chỉ có bộ đồ ăn bằng vàng ). Vì thế nhôm là kim loại tương đối mới trong Công lao và được làm ra với số lượng Công lao chỉ khoảng trên 100 năm.



Nhôm khi mới được phát hiện là cực kỳ khó Chia ra khỏi các loại đá có chứa nó. Vì tất nhôm của trái đất tồn tại dưới dạng các hợp chất nên nó là kim loại khó nhận được nhất. Lý do là nhôm bị ôxi hóa rất nhanh và ôxít nhôm là một hợp chất cực kỳ vững bền , không giống như gỉ sắt , nó không bị bong ra.



Sự tái chế nhôm từ các phế thải đã trở nên một trong những thành phần nông dân quan trọng của Công lao luyện nhôm . Việc tái chế giản đơn là nấu chảy kim khí , nó rẻ hơn dồi dào so với làm ra từ quặng. Việc tinh luyện nhôm mất mát nhiều điện năng; việc tái chế định mức hao khoảng 5% năng lượng để làm ra ra nó trên cùng một khối lượng sản phẩm. Mặc dầu cho đến đầu thập niên 1900 , việc tái chế nhôm không còn là một khu vực mới. Tuy nhiên , nó là chuye hoạt động trầm lắng cho đến tận những năm cuối thập niên 1960 khi sự Phát nổ của việc sử dụng nhôm để làm vỏ của các loại đồ uống , kể từ đó việc tái chế nhôm được đưa vào trong tầm để ý của cộng đồng. Các nguồn tái chế nhôm bao gồm ô tô cũ , cửa và cửa sổ nhôm cũ , các thiết bị Nhà ở cũ , contenơ và các sản phẩm khác.



Nhôm là một kim khí hoạt động và rất khó phân lập nó ra từ quặng , ôxít nhôm ( Al 2 O 3 ). Việc khử trực tiếp , ví dụ với cacbon , là không kinh tế vì ôxít nhôm có điểm nóng chảy cao ( khoảng 2.000 °C ). Bởi thế , nó được Chia ra bằng cách điện phân – ôxít nhôm được hòa tan trong cryôlit nóng chảy và sau thời gian ấy bị khử bởi dòng điện thành nhôm kim loại. Theo công nghệ này , nhiệt độ nóng chảy của hỗn tạp chỉ còn khoảng 950-980 °C. Cryôlit bổn sơ được tìm thấy như một khoáng chất ở Greenland , nhưng sau đó được thay thế bằng cryôlit tổng hợp. Cryôlit là hỗn hợp của các florua nhôm , natri và canxi ( Na 3 AlF 6 ). Ôxít nhôm trong dạng bột màu trắng thu được từ quặng bôxít tinh luyện , quặng này có vẻ đan vì chứa khoảng 30-40% ôxít sắt. Nó được tinh chế theo công nghệ Bayer . Trước khi có công nghệ này , công nghệ được sử dụng là công nghệ Deville .



Công nghệ điện phân thay thế cho công nghệ Wöhler , là công nghệ khử clorua nhôm khan với kali .



Các điện cực trong điện phân ôxít nhôm làm từ cacbon . Khi quặng bị nóng chảy , các ion của nó chuyển động không bị các nghĩa vụ hoặc trách nhiệm trói buộc. Phản ứng tại catốt mang điện âm là:



Al 3+ + 3e - → Al

Ở đây các ion nhôm bị biến chuyển ( nhận thêm điện tử ). Nhôm kim khí sau đó chìm xuống và được đưa ra khỏi lò điện phân.



Tại cực dương ( anode ) ôxy dạng khí được tạo thành:



2O 2- → O 2 + 4e -

Cực dương cacbon bị ôxi hóa bởi ôxy . Cực dương bị hao mòn dần và phải được thay thế luôn luôn , do nó bị mất mát do phản ứng:



O 2 + C → CO 2

ngược lại với anốt , các catốt Hầu như không bị hao hụt trong quá trình điện phân do không có ôxy ở gần nó. Catốt cacbon được gác canh bởi nhôm lỏng trong lò. Các catốt bị bào mòn chính yếu là do các phản ứng điện hóa. Sau 5-10 năm , nước phụ thuộc vào dòng điện sử dụng trong quá trình điện phân , các lò điện phân cần phải tu sửa tất do các catốt đã bị ăn mòn hoàn toàn.



Điện phân nhôm bằng công nghệ Hall-Héroult hao hụt nhiều điện năng , nhưng các công nghệ khác xoành xoạch có có lỗi về mặt kinh tế hay môi trường hơn công nghệ này. Các quy định mất mát năng lượng phổ quát là khoảng 14 , 5-15 , 5 kWh/kg nhôm được sản xuất. Các lò hiện đại có mức tiêu thụ điện lực khoảng 12 , 8 kWh/kg. Dòng điện để thực hiện công việc điện phân này đối với các công nghệ cũ là 100.000-200.000 A . Các lò ngày nay làm việc với cường độ dòng điện khoảng 350.000 A. Các lò thử nghiệm làm việc với dòng điện khoảng 500.000 A.



Năng lượng điện chiếm khoảng 20-40% trong giá thành của sản xuất nhôm , nước phụ thuộc vào nơi đặt lò nhôm. Các lò luyện nhôm có xu hướng được đặt ở những khu vực mà nguồn cung cấp điện rất nhiều với giá điện rẻ , như Nam Phi , đảo miền nam New Zealand , Úc , Trung Quốc , Trung Đông , Nga và Québec ở Canada .



Trung Quốc hiện là nhà sản xuất nhôm lớn nhất thế giới ( năm 2004 ).



Đồng vị [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm có chín đồng vị , số Z của chúng từ 23 đến 30. Chỉ có Al-27 ( đồng vị yên ổn ) và Al-26 ( đồng vị phóng xạ , t 1/2 = 7 , 2 × 10 5 năm ) tìm thấy trong thiên nhiên , tuy nhiên Al-27 có sự phổ quát trong tự nhiên là 100%. Al-26 được làm ra từ agon trong khí quyển do va chạm ra đời bởi các tia vũ trụ proton . Các đồng vị của nhôm có vận dụng thực tế trong việc tính tuổi của trầm tích dưới biển , các vết mangan , nước đóng băng , thạch anh trong đá lộ thiên , và các tinh thạch. Tỷ lệ của Al-26 trên beryli-10 được sử dụng để nghiên cứu vai trò của việc chuyển hóa , lắng đọng , lưu trữ trầm tích , thời kì cháy và sự xâm thực trong thang độ thời kì 105 đến 106 năm ( về sai số ).



Al-26 nguyên lai vũ trụ hàng đầu được sử dụng để nghiên cứu mặt trăng và các tinh thạch . Các thành phần của thiên thạch , sau khi thoát khỏi nguyên lai của chúng , trong khi chu du trong không gian bị tiến công bởi các tia vũ trụ , ra đời các nguyên tử Al-26. Sau khi rơi xuống địa cầu , tấm chắn khí quyển đã canh giữ cho các phần tử này không ra đời thêm Al-26 , và sự phân rã của nó có khả năng sử dụng để xác định tuổi trên địa cầu của các thiên thạch này. Các nghiên cứu về tinh thạch cho thấy Al-26 là tự do tương đối phổ quát trong thời gian hình thành hệ hành tinh của chúng tôi. Có khả năng là năng lượng được giải phóng bởi sự phân rã Al-26 liên đái đến sự nấu chảy lại và sự sai dị của một số tiểu hành tinh sau khi chúng hình thành cách đây 4 , 55 tỷ năm. [19]



Cụm [ sửa sửa mã nguồn ] Trong tập san Science ngày 14 tháng 1 năm 2005 đã báo cáo rằng các cụm 13 nguyên tử nhôm ( Al 13 ) được tạo ra có tính chất giống như nguyên tử iốt ; và 14 nguyên tử nhôm ( Al 14 ) có thuộc tính giống như nguyên tử kim loại kiềm thổ . Các nhà nghiên cứu còn liên kết 12 nguyên tử iốt với cụm Al 13 để tạo ra một lớp mới của pôlyiốtua . Sự phát kiến này được thông báo là Cởi ra khả năng của các biến hóa mới của bảng tuần hoàn các nguyên tố : "các nguyên tố cụm". Nhóm Học hỏi dẫn đầu bởi Shiv N. Khanna ( Đại học Virginia Commonwealth ) và A. Welford Castleman Jr ( Đại học tiểu bang Penn ). [20]



cảnh báo [ sửa sửa mã nguồn ] Nhôm là một trong ít các nguyên tố phổ thông nhất mà không có công năng hữu ích nào cho các thân hình sống , nhưng có một số người bị dị ứng với nó — họ bị các chứng viêm da do gặp mặt với các dạng khác nhau của nhôm: các vết ngứa do sử dụng các chất làm se da hay hút mồ hôi ( phấn rôm ) , các rối loạn tiêu hóa và giảm hay mất khả năng tiếp thu các chất dinh dưỡng từ thức ăn nấu trong các nồi nhôm , nôn mửa hay các triệu chứng khác của bị trúng độc nhôm do ăn ( uống ) các sản phẩm như Kaopectate® ( thuốc chống ỉa chảy ) , Amphojel® và Maalox® ( thuốc chống chua ). Đối với những người khác , nhôm không bị coi là chất độc như các kim khí nặng , nhưng có mật hiệu của ngộ độc nếu nó được tiếp thu nhiều , mặc dù việc sử dụng các đồ nhà bếp bằng nhôm ( phổ quát do khả năng chống bào mòn và dẫn nhiệt tốt ) nói chung chưa cho thấy dẫn đến tình trạng ngộ độc nhôm. Việc tiêu thụ qua nhiều các thuốc chống chua chứa các hợp chất nhôm và việc sử dụng quá nhiều các chất hút mồ hôi chứa nhôm có lẽ là nguồn độc nhất sinh ra sự bị trúng độc nhôm. Địa ngục ta tuy là nhôm liên đới đến bệnh Alzheimer , mặc dù các nghiên cứu gần đây đã bị bác bỏ.



Cần cẩn thận để không cho nhôm tiếp xúc với một số chất hóa học nào đó có thể ăn mòn nó rất nhanh. Giá dụ , chỉ một lượng nhỏ thạch tín tiếp kiến với bề mặt của miếng nhôm có xác xuất gây thiệt hại nhiều lớp ôxít nhôm canh gác bình thường có trên bề mặt các tấm nhôm. Trong vài giờ , thậm chí cả một cái xà có cấu trúc nặng nề có khả năng bị làm yếu đi một cách rõ rệt. Vì lý do này , các loại nhiệt kế thạch tín không được phép trong nhiều trường bay và hãng điện cơ , vì nhôm là thành phần nông dân kiến trúc căn bản của các máy bay.



Hóa học [ sửa sửa mã nguồn ] thể trạng ôxi hóa 1 [ sửa sửa mã nguồn ] AlH được phối chế khi nhôm bị nung nóng ở nhiệt độ 1500 °C trong hiđrô .

Al 2 O được pha chế bằng cách nung nóng ôxít bình thường , Al 2 O 3 , với silic ở nhiệt độ 1800 °C trong chân không .

Al 2 S được điều chế bằng cách nung nóng Al 2 S 3 với vỏ nhôm ở nhiệt độ 1300 °C trong chân không. Nó nhanh chóng bị chuyển thành các chất ban sơ. Selenua được phối chế tương tự.

AlF , AlCl và AlBr tồn tại trong pha khí khi ba halua được nung nóng cùng với nhôm.

thể trạng ôxi hóa 2 [ sửa sửa mã nguồn ] Subôxít nhôm , AlO có xác xuất được tồn tại khi bột nhôm cháy trong ôxy .

thể trạng ôxi hóa 3 [ sửa sửa mã nguồn ] quy tắc Fajans chỉ ra rằng cation hóa trị ba Al 3+ là không được mong chờ tìm thấy trong các muối khan hay trong các hợp chất nhị phân như Al 2 O 3 . Hiđrôxít nhôm là một bazơ yếu và muối nhôm của các axít yếu , chẳng hạn như cacbonat , chẳng thể tạo ra. Muối của các axít mạnh , chẳng hạn như nitrat , là yên ổn và hòa tan trong nước , tạo thành các hiđrat với chí ít sáu phân tử nước kết tinh .

Hiđrua nhôm , ( AlH 3 ) n , có khả năng làm ra từ trimêthyl nhôm và hiđrô dư dật. Nó cháy kèm nổ trong không khí. Nó cũng có xác xuất được điều chế bằng biến hóa của clorua nhôm trên hiđrua liti trong dung dịch ête , nhưng chẳng thể cô lập thành dạng tự do từ dung dịch.

Cacbua nhôm , Al 4 C 3 được làm ra bằng cách nung nóng hỗn tạp hai nguyên tố trên 1.000 °C. Các tinh thể màu vàng nhạt có cấu trúc lưới không đơn giản , và đặc tính với nước hay axít loãng tạo ra mêtan . Axêtylua , Al 2 ( C 2 ) 3 , được điều chế bằng cách cho axêtylen đi qua nhôm nóng.

Nitrua nhôm , AlN , có khả năng được làm ra từ các nguyên tố ở nhiệt độ 800 °C. Nó bị thủy phân bởi nước tạo ra amôniắc và hiđrôxít nhôm .

Phốtphua nhôm , AlP , được sản xuất tương tự , và bị thủy phân thành phốtphin ( PH 3 ).

Ôxít nhôm , Al 2 O 3 , tìm thấy trong tự nhiên như là corunđum , và có khả năng điều chế bằng cách đốt nóng nhôm với ôxy hay nung nóng hiđrôxít , nitrat hoặc sulfat. Như là một loại đá quý , độ cứng của nó chỉ thua có kim cương , nitrua bo và cacborunđum . Nó gần như không hòa tan trong nước.

Hiđrôxít nhôm có thể được pha chế như là một chất kết tủa dạng gelatin bằng cách cho thêm amôniắc vào trong dung dịch của các muối nhôm. Nó là lưỡng tính , vừa là bazơ yếu vừa là axít yếu , có thể tạo ra các muối aluminat với kim loại kiềm . Nó tồn tại trong các dạng tinh thể khác nhau.

Sulfua nhôm , Al 2 S 3 , có khả năng điều chế bằng cách cho sulfua hiđrô đi qua bột nhôm. Nó là một chất đa hình.

Florua nhôm , AlF 3 , có xác xuất phối chế bằng cách cho hai nguyên tố tác dụng với nhau hay cho hiđrôxít nhôm tác dụng với HF. Nó gây nên phân tử lớn , bay hơi không qua pha nóng chảy ở nhiệt độ 1.291 °C ( thăng hoa ). Nó là một chất rất trơ. Các trihalua khác là các chất dime , có cấu trúc cầu nối.

Các hợp chất hữu cơ của nhôm có công thức chung AlR 3 tồn tại và nếu không phải là các phân tử lớn , thì là các chất dime hay trime . Chúng được sử dụng trong tổng hợp chất hữu cơ , giá dụ trimêtyl nhôm .

Các chất alumino-hyđrua của phần lớn các nguyên tố có thể tích điện dương đã được biết , trong đó đáng được coi trọng nhất là hiđrua nhôm liti , Li[AlH 4 ]. Khi bị đốt nóng , nó phân hủy thành nhôm , hiđrô và hiđrua liti , nó bị thủy phân trong nước. Nó có nhiều vận dụng trong hóa hữu cơ. Các alumino-halua [AlR 4 ] có cấu trúc tương tự.
Trả lời với trích dẫn


CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI
Trả lời


Công cụ bài viết
Kiểu hiển thị

Quyền viết bài
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

vB code is Mở
Mặt cười đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Mở
Chuyển đến

SangNhuong.com


 
Diễn đàn được xây dựng bởi: SangNhuong.com
©2012 Chợ thông tin dụng cụ thể thao Việt Nam
© 2008 - 2024 Nhóm phát triển website và thành viên SANGNHUONG.COM.
BQT không chịu bất cứ trách nhiệm nào từ nội dung bài viết của thành viên.
SangNhuong.com - Chợ rao vặt Việt Nam